gioi thieu ve quang ngai
Chương 40: Đáy giếng chi chiến "Ôi? Lại là Đường Hạo." Nhìn Đường Hạo với Diệp Tu riêng phần mình đi vào lẫn nhau tác chiến gian phòng thất sau đó, Hoàng Thiếu Thiên nhịn không được nhỏ giọng thầm thì lên, "Lão Diệp điên rồi a, cái này hoàn toàn là muốn khiến Đường Hạo hồi tưởng lại lần
Công ty TNHH TM-DV AN THÀNH. 568 Quang Trung - P.Nguyễn Nghiêm - TP. Quảng Ngãi - Tỉnh Quảng Ngãi. Điện thoại: 0909070905 - 0909497017. Website: tudonghoaquangngai.com.vn. Mail: tudonghoaquangngai@gmail.com. Công ty được thành lập vào ngày 07/11/2017. Mã số thuế:4300808035.
I. Giáo dục Quảng Ngãi sau ngày giải phóng: Ngày 24 tháng 3 năm 1975, Quảng Ngãi đã được giải phóng. Cùng với việc củng cố, xây dựng chính quyền Cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, công tác giáo dục đã được chú trọng đúng mức. Không đầy 2 tuần sau ngày giải
Vay Tiền Cấp Tốc Online Cmnd. Giới thiệu khái quát thành phố Quảng Ngãi Thành phố Quảng Ngãi là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi, được đặt làm tỉnh lỵ. Thành phố Quảng Ngãi nằm ở phía đông tỉnh, hữu ngạn sông Trà Khúc, tại tọa độ địa lí 180o48’Đ và 15o08’B. Ba phía đông, tây, nam đều giáp huyện Tư Nghĩa, phía bắc giáp huyện Sơn Tịnh qua sông Trà Khúc; có Quốc lộ 1 và đường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích 37,12km². Dân số người năm 2005. Mật độ dân số người/km²1. Đơn vị hành chính trực thuộc gồm 2 xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng; 8 phường Nguyễn Nghiêm, Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Chánh Lộ, Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh, với 166 thôn, tổ dân phố; trong đó Phường Nguyễn Nghiêm có 13 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 13; Phường Trần Hưng Đạo có 18 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 18; Phường Lê Hồng Phong có 14 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 14; Phường Trần Phú có 24 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 24; Phường Chánh Lộ có 20 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 20; Phường Quảng Phú có 26 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 26; Phường Nghĩa Lộ có 22 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 22; Phường Nghĩa Chánh có 19 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 đến tổ 19; Xã Nghĩa Dũng có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 đến thôn 6; Xã Nghĩa Dõng có 4 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 đến thôn 4. Địa hạt thành phố Quảng Ngãi có dân cư, hình thành làng mạc từ lâu đời. Nơi đây được đặt làm tỉnh lỵ từ năm 1807, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, vị trí địa lý, thành phố Quảng Ngãi vẫn là một đô thị phát triển muộn so với nhiều đô thị khác trong nước. Sự phát triển muộn xét về mặt nào đó có một số thuận lợi nhất định, nhưng bao trùm vẫn là một khó khăn lớn trên đường phát triển. Về hành chính, thành phố Quảng Ngãi trải qua nhiều thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. Toàn bộ địa hạt thành phố Quảng Ngãi xưa kia đều thuộc huyện Chương Nghĩa. Tỉnh thành Quảng Ngãi Vùng trung tâm nội thị của thành phố Quảng Ngãi vốn là xã Chánh Mông sau đổi là Chánh Lộ, tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa. Từ năm Gia Long thứ 6 1807, tỉnh thành Quảng Ngãi được dời về đây. Năm Gia Long thứ 14 1815, thành được xây bằng đá ong. Thành có 3 cửa Tây, Đông, Bắc chưa rõ vốn có cửa Nam hay không; tỉnh thành do các kiến trúc sư Pháp theo giúp Gia Long thiết kế được xây dựng theo kiểu vôbăng vauban của Pháp, bình đồ vuông, chu vi 500 trượng hai thước 2000m; cao một trượng 4m, bốn phía có hào thành áp sát bờ thành rộng 5 trượng 20m. Thành có một trục dọc xẻ đôi thành từ cửa Tây đến cửa Đông nay là đường Lê Trung Đình, chia thành ra hai phần nam, bắc, trong đó phần phía nam nhỏ bằng 1/2 của phần phía bắc. Từ ngoài vào thành có cầu bắc qua hào, có cổng thành. Các cơ quan đầu não của tỉnh nằm gọn trong thành. Theo trục đường từ phía tây đi xuống phía đông, phía tay trái phần phía bắc ở giữa có dinh Tuần vũ, phía tây là dinh Án sát, phía đông có dinh Lãnh binh, nhà lao, nhà thương ở phía sau; từ khi thực dân Pháp đô hộ, có thêm Nhà Dây thép Bưu điện, Sở Lục lộ… Phía tay phải phần phía nam đường có Hành cung nơi vua ngự trên đường công cán, đối diện với dinh Tuần vũ; về sau, ở phía đông có tòa Công sứ, phía tây có đồn Khố Xanh. Theo tài liệu Quảng Ngãi tỉnh chí do Tuần vũ Quảng Ngãi Nguyễn Bá Trác chủ trương, biên soạn năm 1933, tại nội thành Quảng Ngãi có số nhà tư là 87 nóc với số người là 584 người, nhà tranh làm liền kề bên nhau của các công chức làm việc trong thành. Thời Nhật chiếm đóng, quân Nhật đóng quân cố thủ trong thành khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, sau phải rút đi. Năm 1947, thành được san bằng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Về tỉnh thành Quảng Ngãi trước khi dời về xã Chánh Mông, sách Đại Nam nhất thống chí cũng như các sách cổ khác đều ghi là ở xã Phú Nhơn, huyện Bình Sơn nay thuộc huyện Sơn Tịnh, đầu niên hiệu Gia Long 1802 dời đến xã Phú Đăng huyện Chương Nghĩa. Xã Phú Nhơn nay thuộc thị trấn huyện lị Sơn Tịnh, nằm ở bắc sông Trà Khúc, gần sát với tỉnh lỵ Quảng Ngãi ngày nay. Tuy vậy, ở đây không còn dấu vết gì vì có lẽ tỉnh thành hồi ấy chỉ xây dựng tạm bợ. Còn Phú Đăng có thể là một địa điểm cách thành phố Quảng Ngãi 10km về phía đông, nằm bên sông Phú Thọ. Sách bản đồ cổ Lê Hoàng triều kỷ có ghi rõ bên dòng sông này có nhà kho Phú Đăng Phú Đăng khố. Nơi đây xưa là được coi là cảng biển chính của tỉnh Quảng Ngãi. Tuy vậy, cho đến nay chưa thấy dấu vết nào của tỉnh thành, có lẽ vì tỉnh thành được đặt ở đây trong một thời gian quá ngắn ngủi 1802 – 1807 nên chưa kịp xây dựng gì. Hiện nay, dù không còn, nhưng dấu vết xưa của thành Quảng Ngãi ở Chánh Lộ vẫn còn rõ. Đó là các hào thành, các địa điểm Cửa Tây, Cửa Đông, Cửa Bắc. Khuôn viên nội thành nay là một số cơ quan của tỉnh và khu dân cư. Tỉnh lỵ Quảng Ngãi dời về xã Chánh Mông tính đến năm 2007 là tròn 200 năm, tính từ năm 1807. Nhưng tỉnh thành Quảng Ngãi chỉ là một phần nhỏ của xã Chánh Mông, địa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay rộng lớn hơn nhiều. Địa bàn thành phố Quảng Ngãi Địa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay khá rộng, gồm các thôn xã xưa xã Ba La, thôn Ngọc Án, xã Chánh Mông, châu Vạn Tượng, xã Thu Phố, xã Đại Nham, châu Phù Khế thuộc các tổng Nghĩa Hạ, Nghĩa Châu của huyện Chương Nghĩa. Xã Chánh Mông nguyên có tên là xã Cù Mông, đời Gia Long thuộc tổng Trung, sau thuộc về tổng Nghĩa Điền huyện Chương Nghĩa, có 815 mẫu ruộng đất. Đời Minh Mạng, Cù Mông đổi là Chánh Mông. Đời vua Đồng Khánh 1885 – 1888 để tránh tên húy, xã Chánh Mông đổi tên là xã Chánh Lộ. Xã Ba La đời vua Gia Long thuộc về tổng Trung, sau thuộc tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa, có 698 mẫu ruộng đất. Châu Vạn Tượng cũng thuộc tổng Trung, sau về tổng Nghĩa Hạ, đời Gia Long có gần 123 mẫu ruộng đất. Xã Thu Phố đời Gia Long thuộc tổng Thượng, sau thuộc về tổng Nghĩa Trung, có 216 mẫu ruộng đất. Đến trước năm 1945, diện tích xã Thu Phố có đến mẫu Trung Bộ với số dân người. Xã Đại Nham và châu Phù Khế nhỏ hẹp, nằm sát bãi sông Trà Khúc. Đô thị Quảng Ngãi manh nha hình thành ở phía tây thành, gọi là Chánh Lộ phố. Cho đến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí chép rằng “Thành phố Quảng Ngãi số nhà đếm được là 331 cái và số người là người, vừa lớn, nhỏ, đàn ông, đàn bà”. Ngày Âm lịch năm Bảo Đại thứ 9 có dụ số 23 của vua Bảo Đại quyết định thiết lập một đô thị trung tâm cùng tên, thay cho tỉnh thành Quảng Ngãi “bị tước danh tịch”. Đô thị này mở rộng lên hướng tây, rộng 133ha thuộc xã Chánh Mông và xã Thu Phố, phía tây đến ga và đường sắt Quảng Ngãi vừa mới xây dựng. Đến trước năm 1945, ở xã Chánh Lộ, bên ngoài tỉnh thành có Chánh Lộ phố gồm các phường Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, sau đó có thêm phường Thu Lộ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chánh Lộ phố được quyết định thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh. Các làng xã khác như đã kể trên vẫn thuộc huyện Tư Nghĩa. Sau kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng thực hiện tiêu thổ kháng chiến, các cơ quan tỉnh sơ tán về các vùng quê xa, đơn vị thị xã Quảng Ngãi nhập chung với xã Nghĩa Lộ huyện Tư Nghĩa.. Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, chính quyền Sài Gòn thành lập xã Cẩm Thành với 4 ấp Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, Thu Lộ. Theo Nghị định số 314-BNV/HC/NĐ ngày của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa chính quyền Sài Gòn thì Cẩm Thành vẫn thuộc quận huyện Tư Nghĩa, có ghi chú thêm “xã này có thể đặt trực thuộc tòa tỉnh trưởng”. Nhưng theo các văn bản hành chính, cho đến tháng các vùng ven vẫn thuộc quận huyện Tư Nghĩa. Tháng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phía kháng chiến thành lập đơn vị thị xã Quảng Ngãi để đẩy mạnh phong trào cách mạng trong đô thị. Từ năm 1968, ở phía kháng chiến, địa bàn thị xã Quảng Ngãi ngoài 4 ấp nội thị được tính gồm cả xã Nghĩa Lộ, xã Nghĩa Điền, xã Nghĩa Dõng huyện Tư Nghĩa và thôn Đông Dương của xã Tịnh Ấn huyện Sơn Tịnh. Sau ngày thị xã Quảng Ngãi được giải phóng đơn vị hành chính được điều chỉnh, gồm 4 phường, 3 xã như sau ấp Bắc Môn đổi thành phường Lê Hồng Phong; ấp Bắc Lộ đổi thành phường Trần Hưng Đạo; ấp Nam Lộ đổi thành phường Nguyễn Nghiêm; ấp Thu Lộ đổi thành phường Trần Phú; xã Nghĩa Lộ xã Tư Chánh thời chính quyền Sài Gòn; xã Nghĩa Điền xã Tư Quang thời chính quyền Sài Gòn; xã Nghĩa Dõng xã Tư Bình thời chính quyền Sài Gòn. Riêng thôn Đông Dương trả về cho xã Tịnh Ấn. Ngày thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa với số xã phường kể trên và 11 xã của huyện Tư Nghĩa. Tháng xã Nghĩa Lộ tách lập thành 2 xã Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh. Cuối năm 1981, thị xã Quảng Nghĩa tái lập thành 2 đơn vị thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa và có sự điều chỉnh địa giới hành chính so với trước. Thị xã Quảng Ngãi có 4 phường Lê Hồng Phong, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Nghiêm, Trần Phú và 5 xã Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh, Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng. Trong đó, xã Quảng Phú mới thành lập gồm 3 thôn của xã Nghĩa Điền một phần xã Nghĩa Điền giao về cho huyện Tư Nghĩa là Thu Phổ Đông, Thu Phổ Tây, Thạch Phổ các thôn này trước năm 1945 thuộc xã Thu Phố; xã Nghĩa Dũng được tách từ xã Nghĩa Dõng cũ, xã Nghĩa Dõng tương đương với xã Ba La xưa, xã Nghĩa Dũng tương đương với châu Vạn Tượng và một phần xã Ba La, các làng Đại Nham, Phù Khế. Tháng tỉnh Quảng Ngãi được tái lập. Thị xã Quảng Ngãi trở thành tỉnh lỵ như trước. Tháng xã Nghĩa Lộ được tách lập làm phường Chánh Lộ và xã Nghĩa Lộ. Năm 1994, xã Nghĩa Lộ đổi thành phường Nghĩa Lộ. Xã Quảng Phú cũng được đổi là phường Quảng Phú. Cho đến cuối năm 2004, thị xã Quảng Ngãi có 8 phường, 2 xã như đã kể trên. Các khối phố đổi ra nhiều tổ dân phố. Năm 2002, thị xã Quảng Ngãi được công nhận đô thị loại 3 và đến ngày có Nghị định của Chính phủ thành lập thành phố trực thuộc tỉnh. Về tự nhiên,2. Phía đông – đông nam núi Bút có hòn Nghiên, quen gọi là hòn Mu Rùa, hiện có một đơn vị điện lực đóng. Phía nam – tây nam có một gò đồi, xưa gọi là núi Sơn Xuyên vì có đàn Sơn Xuyên thờ sông núi, sau gọi là Quy Sơn, vì có Quy Sơn Tự do Nguyễn Hữu Mưu lập từ đời Nguyễn. Núi Trấn Công, tục gọi là núi Ông hay núi Ông Trấn, trước kia gọi là núi Phước hay Phước Lãnh, hay Ngũ Phước, tương truyền có nhiều dơi, là loài vật được xem gắn với phúc. Núi nằm ở phía tây thành phố thuộc phường Quảng Phú, chân ngâm vào sông Trà Khúc. Núi Trấn Công xưa có lăng thờ Trấn Quận công Bùi Tá Hán, danh tướng đời Lê Trung hưng. Về sau, do xây dựng Nhà máy Đường Quảng Ngãi nên đền thờ phải dời về Rừng Lăng. Đại bộ phận đất đai của thành phố Quảng Ngãi là đồng bằng, có độ cao từ 4 – 9m so với mặt biển, trong đó vùng phía tây phường Quảng Phú cao hơn cả. Khí hậu thành phố Quảng Ngãi mang đặc trưng chung của vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Về dân cư Tính đến năm 2005, cư dân thành phố Quảng Ngãi có người. Diện tích tự nhiên, dân số, mật độ dân số cụ thể của từng xã, phường như sau3 TT Xã, phường Diện tích tự nhiên km2 Dân số người Mật độ dân số người/km2 1 Phường Lê Hồng Phong 3,38 2 Phường Trần Phú 2,179 3 Phường Trần Hưng Đạo 0,52 4 Phường Nguyễn Nghiêm 0,525 5 Phường Nghĩa Lộ 4,01 6 Phường Chánh Lộ 2,57 7 Phường Quảng Phú 7,27 8 Phường Nghĩa Chánh 4,03 9 Xã Nghĩa Dõng 6,06 10 Xã Nghĩa Dũng 6,62 Tổng số 37,12 Trong số người dân ở thành phố Quảng Ngãi thời điểm năm 2005, chỉ có 425 người Hrê, 110 người Cor, 1 người Ca Dong từ các huyện miền núi trong tỉnh mà phần nhiều trong số này là lớp trẻ đang theo học trường dân tộc nội trú tỉnh nằm trên địa bàn phường Quảng Phú và 28 người thuộc các dân tộc khác theo vợ, chồng về thành phố sinh sống. Tuyệt đại đa số dân cư ở thành phố Quảng Ngãi là người Việt. Xưa kia, trên địa bàn này có lớp dân cư cổ sinh tụ là người Chăm. Về sau, thị xã Quảng Ngãi có thêm một ít người Việt gốc Hoa, Ấn kiều. Thời thuộc Pháp có thêm một số quan chức Pháp, thời chính quyền Sài Gòn kiểm soát có một số viên chức dân sự và quân sự Mỹ; từ sau 1975, có thêm một số đồng bào dân tộc thiểu số miền núi trong tỉnh và từ các tỉnh khác về cư ngụ, nhưng đều không nhiều4. Thời chính quyền Sài Gòn, vào khoảng giữa năm 1962, vùng nội thành Quảng Ngãi gồm 4 ấp có số dân người với gia đình. Cụ thể ấp Bắc Môn có người với 225 gia đình; ấp Bắc Lộ có người với 535 gia đình; ấp Nam Lộ có người với 666 gia đình; ấp Thu Lộ có người với 311 gia đình. Vùng ngoại thành có tổng cộng người với gia đình. Cụ thể xã Tư Quang chỉ tính hai ấp Thu Phổ Đông, Thu Phổ Tây, sau này là phường Quảng Phú có người với 824 gia đình; xã Tư Bình sau này là hai xã Nghĩa Dõng, Nghĩa Dũng có người với gia đình; xã Tư Chánh sau này là các phường Nghĩa Chánh, Nghĩa Lộ, Chánh Lộ có người với gia đình. Tổng cộng cả vùng nội và ngoại thành tính theo địa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay có người với gia đình. Vào thời điểm chiến tranh nổ ra ác liệt, dân cư các huyện trong tỉnh tập trung ở địa hạt thành phố rất đông. Vào thời điểm tháng ở xã Cẩm Thành nội thị có đến người, xã Tư Chánh có người, xã Tư Quang có người, xã Tư Bình có người, tổng cộng cả nội thị và ngoại vi có đến người. Đến năm 1975, giải phóng toàn tỉnh, số dân tạm trú lần lượt trở về quê cũ5. Cư dân thành phố Quảng Ngãi xưa có người Chăm qua các dấu tích còn sót lại. Cư dân Việt làm nông và dấu ấn nông nghiệp cho đến nay vẫn còn rất rõ. Thành phố Quảng Ngãi được đô thị hóa khá muộn, nên các ngành nghề công nghiệp, thương mại, dịch vụ cũng chỉ mới hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ XX về sau và đang có xu hướng tăng nhanh. Dân cư Việt ở thành phố Quảng Ngãi xưa vốn giỏi về nghề nông, đặc biệt giỏi về việc làm bờ xe nước dọc sông Trà Khúc. Người dân ở đây cũng rất hiếu học, với nhiều người học giỏi, đỗ đạt cao, trong đó nổi bật có các “danh tộc”, như tộc Bùi của Bùi Tá Hán, tộc Tạ của Tạ Tương ở Nghĩa Lộ, tộc Nguyễn ở Vạn Tượng, Nghĩa Dũng của Nguyễn Duy Cung, tộc Nguyễn ở Ba La Nghĩa Dõng… Một đặc điểm quan trọng của cư dân thành phố Quảng Ngãi ngày nay là tỉ lệ cư dân chuyển từ các huyện về khá cao, do tốc độ đô thị hóa đang diễn ra tương đối nhanh. Sự biến đổi dân số ở thành phố Quảng Ngãi là số dân di chuyển cơ học nhiều, do vậy bên cạnh việc xem xét mức độ tăng giảm dân số tự nhiên, sự tăng giảm cả chuyển đi và chuyển đến dân số cơ học là không thể bỏ qua. * * * Về truyền thống yêu nước của cư dân thành phố Quảng Ngãi, người ta thấy có những dấu hiệu có thể là dấu vết của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII qua các địa danh như Tàu Tượng, bãi Ông Bành, Bàu Voi, khu Mả Voi, có thể là những dấu tích về tượng binh thời Tây Sơn. Trong phong trào Cần vương 1885 – 1896, các thủ lĩnh Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Thái Thú, Trần Du… đều lấy tỉnh thành Quảng Ngãi làm mục tiêu tấn công và đều được sự ủng hộ của dân cư ở quanh vùng. Ông Bùi Phụ Cát người xã Thu Phố vận động hương binh ở xã, ông Nguyễn Viện người xã Chánh Mông nằm trong phiên chế triều đình đều hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân tháng và bị chém, bị giam cầm đến chết. Trong phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX, địa bàn thành phố Quảng Ngãi là một trọng tâm hoạt động và có cơ sở của phong trào, như hoạt động của Tú tài Trần Kỳ Phong người Châu Me, Bình Sơn, Cử nhân Lê Tựu Khiết người An Ba, Nghĩa Hành… Năm 1908, dân cư ở các huyện trong tỉnh Quảng Ngãi rầm rộ kéo về tỉnh thành để “cự sưu khất thuế” chống sưu thuế thành biển người vây bọc lấy tỉnh thành, với sự tham gia ủng hộ và giúp đỡ của rất đông người dân sở tại. Trong phong trào Việt Nam Quang phục Hội, các chí sĩ lãnh đạo phong trào ở Quảng Ngãi cũng xác định mục tiêu tấn công thành Quảng Ngãi, nhưng cuộc khởi nghĩa chiếm thành năm 1916 bại lộ và hàng loạt chí sĩ đã hy sinh vì nước ngay tại đây. Tỉnh thành Quảng Ngãi cũng là nơi giam cầm nhiều chiến sĩ cộng sản, trong đó có nhiều người là cán bộ lãnh đạo, kể từ 1930, trong số đó có đồng chí Nguyễn Nghiêm – Bí thư đầu tiên của Đảng bộ tỉnh và nhiều người đã hy sinh tại đây. Trong kháng chiến chống Pháp, thành Quảng Ngãi được san phẳng để thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, địa bàn thành phố Quảng Ngãi là nơi có trung tâm đầu não của địch ở tỉnh Quảng Ngãi, nhưng phong trào yêu nước và cách mạng vẫn phát triển phong trào bí mật hoạt động ngay trong nội thị, vùng ven, các phong trào đấu tranh công khai chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cuộc biểu tình lớn năm 1974. Thành phố Quảng Ngãi là quê hương, nơi hoạt động của các nhân vật lưu danh trong lịch sử như Bùi Tá Hán, Nguyễn Duy Cung… Đơn vị thị xã Quảng Ngãi đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày hai xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng được phong tặng danh hiệu cao quý này ngày Thành phố Quảng Ngãi có 40 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. * * * Về kinh tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt động kinh tế, là trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi xưa và nay. Tuy vậy, do hoàn cảnh là một đô thị phát triển muộn, nông nghiệp ở địa bàn thành phố Quảng Ngãi trước đây còn chiếm một tỷ trọng đáng kể. Hiện nay, cơ cấu kinh tế chuyển đổi dần và các lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – thương mại – dịch vụ đã chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm ở thành phố Quảng Ngãi trong giai đoạn 2000 – 2004 là 14,67%. Cơ cấu kinh tế ở thành phố Quảng Ngãi hiện nay được xác định là công – thương – nông nghiệp. Nghề nông Nghề nông tuy không còn chiếm tỉ trọng cao trong kinh tế, nhưng là ngành kinh tế lâu đời nhất và vẫn là nguồn sống quan trọng của một bộ phận dân cư ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay. Nếu xét ở quá khứ chưa xa, thì nghề nông càng có vai trò quan trọng và có nhiều điều đáng chú ý. Đất đai ở địa bàn thành phố được phù sa sông Trà Khúc bồi đắp hằng năm, khá màu mỡ. Ngoài việc trồng lúa, mía, nhiều cây trồng vật nuôi khác cũng rất đáng kể. Thời Pháp thuộc, ở gần cầu Trà Khúc có bãi đất trồng thí nghiệm giống lúa mới, có trại thí nghiệm nuôi tằm, có Sở Thú y để chọn giống, phòng chữa bệnh trâu, bò, heo. Người nông dân ở các làng quê xưa chủ yếu trồng lúa, mía, ngô, rau, đậu ở ven sông để sinh sống. Người dân các làng ở thành phố xưa vốn tự hào về những đồng lúa rộng, đất đai màu mỡ, như về cánh đồng Ba La Ba La chạy tới Cù Mông Chạy quanh chạy quéo cũng về đồng Ba La. Lúa là cây lương thực chính. Sản lượng lúa cả năm 2005 đạt tấn, tổng sản lượng lương thực có hạt là tấn. Do là nơi tập trung lao động phi nông nghiệp rất lớn nên bình quân lương thực đầu người chỉ đạt 97kg, đất nông nghiệp chỉ có Trong sản lượng lương thực, ngô tấn chiếm gần 1/3. Cây mía vẫn được duy trì ở mức thấp với chỉ 100ha. Cây lạc có 130ha với sản lượng 305,10 tấn, rau tấn trong đó xã Nghĩa Dũng tấn, Nghĩa Dõng tấn. Trong điều kiện một thành phố đang đô thị hóa, thì diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, thời điểm năm 2005, diện tích đất nông nghiệp còn trừ 570,58ha đất trồng cây lâu năm, chỉ còn gần đất trồng cây hàng năm. Trong số ấy, các phường ở khu vực trung tâm là Lê Hồng Phong, Trần Phú, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Nghiêm có diện tích không đáng kể, mỗi xã, phường còn lại có từ 150 – 400ha. Các vật nuôi chính là trâu, bò, heo, gà. Tuy vậy, với điều kiện đất canh tác chật hẹp, chăn nuôi cũng khó phát triển. Tính ở thời điểm năm 2005, thành phố chỉ có 212 con trâu, con bò, con lợn. Về gia cầm có số lượng tương đối nhiều, gà con, vịt con. Trong nông nghiệp, việc làm thuỷ lợi từ xưa đã khá nổi bật với các bờ xe nước ở dọc hữu ngạn sông Trà Khúc, với việc đào kênh Tư Nghĩa nối sông Trà Khúc với sông Bàu Giang ở phía tây thành phố trong kháng chiến chống Pháp, với việc đào đắp kênh mương Thạch Nham sau năm 1975. Về bờ xe nước, năm 1939 ở Thu Phố từng có bờ xe nước 9 bánh, tưới được 150 mẫu ruộng, số hoa lợi thu được ang lúa, tiền làm xe, số lợi nhuận đều cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi6. Ở Ba La xưa từng có bờ xe đôi. Năm 1888, ông Võ Văn Giu quê làng Ba La xin dựng xe nước ở Chánh Lộ, cũng là bờ xe đôi, để tưới cho đồng lúa Bàu Lân, Thông Viên, Cổ Đồng. Xe nước tiếp tục được dựng đặt hằng năm cho tới sau năm 1975 mới chấm dứt. Xưa kia, địa hạt thành phố Quảng Ngãi còn khá nhiều rừng như rừng Lăng, rừng trên núi Thiên Bút, có cả thú rừng ở Thu Phổ vẫn còn lưu dấu chân hổ trên khu mộ cụ Bùi Tá Triều, đời vua Minh Mạng. Hiện nay, ở núi Ông, núi Bút đã và đang hình thành các lâm viên rừng trồng. Ngoài việc làm nông, người nông dân trên địa bàn xưa kia còn tiến hành đánh bắt cá trên sông Trà như một nguồn thu nhập đáng kể. Cho đến nay, quá trình đô thị hóa khiến đất đai canh tác bị dần thu hẹp. Nông nghiệp chủ yếu duy trì ở các phường xã vùng ven như phường Quảng Phú phía tây, xã Nghĩa Dũng, xã Nghĩa Dõng ở phía đông, phường Nghĩa Lộ, Chánh Lộ ở phía nam. Ở các xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng, bên cạnh việc duy trì nghề nông với canh tác còn mang đậm dấu ấn cổ truyền có cải tiến, người ta còn chú ý đến phát triển công thương nghiệp, dịch vụ, kinh tế vườn, thâm canh trồng rau xanh, trồng hoa, cây cảnh… cung cấp cho vùng nội thị một lượng nông sản hàng hóa rất đáng kể. Tính đến năm 2005, trong tổng số lao động ở thành phố Quảng Ngãi, lao động nông nghiệp chiếm người, tuy tỷ lệ chỉ trên 10%, nhưng về số lượng vẫn khá lớn. Tiểu thủ công nghiệp Trong hoạt động kinh tế xưa kia, ở địa bàn thành phố Quảng Ngãi hoạt động kinh tế tiểu thủ công nghiệp cũng khá đáng kể. Tập Địa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn viết năm 1939 ghi nhận nghề làm đường cát, đường phèn ở Vạn Tượng, Chánh Lộ, nghề dệt ở Chánh Lộ, nghề mộc ở tỉnh lỵ “Tại tỉnh lỵ có vài ba cửa hàng đóng bàn ghế theo kiểu tân thời, đánh xia bóng nhoáng trông rất đẹp” trang 20. Nhưng nổi tiếng nhất là các nghề làm đường muỗng và các nghề phổ biến khác, sản xuất các loại đường kẹo đặc sản như đường phèn, đường phổi ở Ba La, Vạn Tượng, các món ăn đặc sắc như cá bống sông Trà, don Vạn Tượng. Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu. ca dao Con gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng. ngạn ngữ Trải qua thời gian, các nghề thủ công truyền thống ở thành phố Quảng Ngãi vẫn được duy trì, đồng thời các nghề mới hình thành, thịnh hành như các nghề may mặc, nhôm sắt, đồ gỗ… phổ biến trong phạm vi gia đình, nhưng cũng đã có nhiều cơ sở trở thành doanh nghiệp. Đặc biệt, nghề chế biến món bò khô Quảng Ngãi đã nổi tiếng không chỉ ở thị trường trong tỉnh mà sản phẩm của nó còn lan ra nhiều vùng trong nước. Điều đáng lưu ý là các ngành nghề thủ công cổ truyền chế biến đường kẹo đặc sản như kẹo gương, đường phèn, đường phổi, mạch nha… từ vùng ven và các vùng quê trong tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng hội tụ về thành phố Quảng Ngãi, trong khi ở quê gốc chỉ hoạt động cầm chừng hoặc gần như không còn. Môi trường thành phố Quảng Ngãi có thể là mảnh đất tốt để các nghề này duy trì và phát triển trong điều kiện mới. Hiện trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi có nhiều cơ sở chế biến và nhiều cửa hàng bán các món đặc sản như bánh nổ, bánh in, bò khô, các loại đường phèn, đường phổi, kẹo gương, mạch nha, cá bống sông Trà khá thịnh đạt. Đây cũng chính là một điều kiện để thành phố đa dạng hóa các ngành nghề. Công nghiệp Mặc dù là ngành sản xuất hình thành muộn nhưng công nghiệp ở thành phố Quảng Ngãi có sự phát triển nhanh và rõ nét nhất. Trước kia, cơ sở công nghiệp ở thành phố Quảng Ngãi hầu như không có. Đến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, cơ sở công nghiệp đáng kể duy nhất xuất hiện là Nhà máy đường Thu Phổ, Công ty Đường Quảng Ngãi, xây dựng ở chân núi Ông. Từ năm 1975, các ngành nghề công nhiệp mới dần hình thành và khu công nghiệp Quảng Phú ở phía tây thành phố được thành lập. Đây là một trong ba khu công nghiệp tập trung do tỉnh Quảng Ngãi đầu tư xây dựng. Tính đến năm 2005, khu công nghiệp này có 8 doanh nghiệp nhà nước với số lao động trên người. Khu công nghiệp Quảng Phú chủ yếu là công nghiệp chế biến thực phẩm như đường, kẹo, sữa, nước uống, hải sản đông lạnh… Thành phố Quảng Ngãi cũng xúc tiến để hình thành hai cụm công nghiệp tập trung là cụm công nghiệp Thiên Bút với diện tích 50ha và cụm công nghiệp Yên Phú diện tích 30ha. Thống kê cho thấy đến hết năm 2005, thành phố Quảng Ngãi có cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 5 doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý, 4 doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý, doanh nghiệp cá thể, 46 doanh nghiệp tư nhân, tổng số cơ sở tăng so với năm 2000. Lao động sản xuất công nghiệp cá thể là người. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố theo giá hiện hành năm 2005 là triệu đồng, chiếm trên 2/3 giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh và tăng khoảng 3/5 so với chính thành phố năm 2000 triệu đồng7. Thương mại, dịch vụ, du lịch Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch ngày càng chiếm vị trí nổi bật ở thành phố Quảng Ngãi. Xưa ở địa bàn các làng quê nơi đây đều có chợ chợ Ông Bố phía tây, chợ Ba La phía đông, chợ Gò Quán phía nam, chợ Phú Mỹ Hạ… và lớn nhất là chợ Chánh Lộ, sau trở thành chợ tỉnh, nơi hội tụ việc mua bán của toàn tỉnh. Sách L’ Annam en 1906 chép “Chợ tỉnh Chánh Lộ xã cung cấp được khá tốt và có tầm quan trọng đến các vùng lân cận của thành”. Đến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí có ghi chép về số thuế của chợ tỉnh là đồng tiền Đông Dương, cao vượt trội so với các chợ khác trong tỉnh. Sách Địa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn xuất bản năm 1939 mô tả về không khí buôn bán ở đây “Thành phố Quảng Ngãi cũng là nơi hội hiệp các công sở lớn như Tòa sứ, dinh Quan Tuần, đồn Khố xanh… dân cư trù mật khoảng trên người. Con đường cửa Tây phố xá đông đúc, buôn bán đồ tạp hóa, quang cảnh ngày đêm có vẻ náo nhiệt”. Các nhà buôn ở thành phố hồi này phần lớn là Hoa kiều, Ấn kiều. Trong số các hiệu buôn của người Việt nổi tiếng có các hiệu Quảng Đông An, Quảng Hòa Tế, Mỹ Đông An, Lợi An, Phạm Hoè… Phía bắc tỉnh thành có bến Tam Thương, có sông Đào để ghe thuyền vào ra buôn bán sông Đào được đào từ năm 1938. Chợ tỉnh xưa xây dựng ở phía tây tỉnh thành, giữa vùng sầm uất nhất ở nội thị, sau này mở rộng ra đến phố Nguyễn Nghiêm ở phía nam. Ngoài chợ, việc buôn bán, làm dịch vụ rải rác ở khắp các phố phường. Xưa trong thời Pháp thuộc ở đô thị Quảng Ngãi, dịch vụ mới manh nha phát triển như dịch vụ xe kéo, xe ngựa, cắt tóc, may mặc. Cho đến nay, các dịch vụ trở nên đa dạng hơn nhiều và ngày càng tiếp cận với nhu cầu nhiều mặt của cuộc sống hiện đại. Đặc biệt sự phát triển của ngành dịch vụ ăn uống, giải trí, nhà nghỉ, khách sạn. Thành phố Quảng Ngãi vẫn là điểm đầu mối dẫn đến các điểm tham quan – du lịch trong tỉnh đi Sa Cần – Dung Quất, đi dầu mối Thạch Nham, đi Thiên Ấn – Sơn Mỹ – Mỹ Khê – Ba Làng An, đi Phú Thọ – Cổ Luỹ, đi Nhà lưu niệm Phạm Văn Đồng, đi Bảo tàng Khởi nghĩa Ba Tơ… đều trong khoảng vài ba mươi đến 60km. Năm 2005, có cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ với lao động. Thành phố Quảng Ngãi có Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc – Nam chạy qua. Ga Quảng Ngãi là ga chính trong tỉnh, phục vụ hành khách đi ra Bắc, vào Nam. Đường sắt được xây dựng từ thời Pháp thuộc, ga Quảng Ngãi hoàn thành từ năm 1935, bấy giờ quen gọi là ga Ông Bố gần chợ Ông Bố. Quốc lộ 1 đoạn qua thành phố Quảng Ngãi có tên là đường Quang Trung, sau này xây đường cao tốc ở phía đông gọi là đường tránh đông, có cầu Trà Khúc II xây dựng từ năm 2004. Từ thành phố Quảng Ngãi theo Quốc lộ 1 có thể vào Nam ra Bắc rất thuận tiện. Thời đường bộ chưa phát triển, đường thuỷ vẫn đóng vai trò quan trọng ở thành phố Quảng Ngãi, với đò ngang Trà Khúc nối đường Thiên Lý, đò dọc từ bến Tam Thương lên nguồn xuống biển. Về đường không, thời Pháp thuộc năm 1920, có một chiếc máy bay đáp thử xuống xã Thu Phố nay thuộc xã Quảng Phú, nơi mà sau này, trong thời kỳ đất nước bị chia cắt, chính quyền Sài Gòn đã xây dựng sân bay. Sân bay Quảng Ngãi thời kỳ này khá nhộn nhịp, nhưng kể từ sau năm 1975 đã ngưng hoạt động. Hoạt động giao thông – vận tải ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay chủ yếu dựa vào hệ thống đường sắt và đường bộ. Các dịch vụ, cơ sở hạ tầng khác Thời phong kiến, đường Thiên Lý Bắc – Nam đi qua thành phố Quảng Ngãi, nhưng ở đây không có dịch trạm. Thời Pháp thuộc, thực dân thiết lập “Nhà dây thép” trong nội thành Quảng Ngãi. Đến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, Nhà Bưu điện tỉnh được xây dựng ở vị trí ngày nay đường Phan Đình Phùng, Bưu điện thành phố nằm ở đường Quang Trung, có hệ thống phục vụ thông tin khá tốt trên địa hạt thành phố và trong toàn tỉnh. Số điện thoại thuê bao trên địa bàn thành phố đạt máy vào năm 2005. Nhà máy điện trước kia, sau này là Điện lực Quảng Ngãi có trụ sở trên đường Trần Hưng Đạo. Nguồn điện mới manh nha từ trước 1945, đến sau 1954 mới có sự phát triển nhất định nhưng còn rất hạn chế. Đến thời kỳ đất nước thống nhất, khi có điện lưới quốc gia, mới hoàn toàn phủ điện trên toàn thành phố. Mạng lưới điện ở thành phố Quảng Ngãi dần dần được cải tạo, nâng cấp để đảm bảo về kỹ thuật, an toàn, tiết kiệm. Lĩnh vực tài chính, từ thời Pháp thuộc ở địa hạt thành phố Quảng Ngãi cũng đã có ngân hàng cho vay nhưng còn nhỏ nhoi, không đáng kể. Hệ thống tài chính, ngân hàng của tỉnh đặt ở thành phố Quảng Ngãi trải qua thời gian, đến nay đã phát triển mạnh, bao gồm Ngân hàng Nhà nước nằm trên đường Nguyễn Thuỵ; Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Kho bạc Nhà nước đều nằm trên đường Hùng Vương – trục chính của thành phố; Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Phục vụ người nghèo nằm trên đường Trần Hưng Đạo – gần sát Ngã Năm cũ. Sự kinh doanh tài chính đã phát triển khá tốt. Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt động kinh tế của toàn tỉnh, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Thành phố đang trong quá trình “lột xác”, đô thị hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển chung. * * * Về văn hóa, thành phố Quảng Ngãi là trung tâm văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi xưa nay, còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cổ truyền quý báu. Khuôn viên Bệnh viện Đa khoa tỉnh đường Hùng Vương vốn là nền tháp Chánh Lộ, một tháp có tầm quan trọng trong hệ thống đền tháp Chăm, với phong cách độc đáo, gọi là phong cách Chánh Lộ. Từ thời Pháp thuộc, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở đây nhiều tượng đá độc đáo, phần lớn đưa về lưu giữ ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm thành phố Đà Nẵng và sau này trong khi đào móng, các hiện vật khác cũng xuất lộ, như các sư tử đá, tấm lanhtô đá có khắc văn bia bằng tiếng Chăm được đưa về Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi. Trải năm, sáu thế kỷ trên mảnh đất này, văn hóa Việt cũng lưu lại nhiều di tích quý giá. Đền Bùi Tá Hán nguyên xây dựng năm 1909 ở núi Phước Lãnh từ ngày có đền gọi là núi Ông hay núi Trấn Công, rộng rãi bề thế. Sau năm 1962, chính quyền Sài Gòn xây dựng Nhà máy Đường Quảng Ngãi ở đây, đền phải dời về Rừng Lăng, cách nửa cây số về hướng tây. Tại đây vốn có mộ Bùi Tá Hán, có bia mộ do 4 nhà nho nổi tiếng ở Quảng Ngãi đứng ra xây dựng từ năm 1849. Đền thờ còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng Bùi Tá Hán và tượng Xích Y hầu, 23 bản sắc phong của các triều vua phong cho Bùi Tá Hán và con trai là Bùi Tá Thế8. Thuở xưa, ở các làng xã đều có đình làng, nổi tiếng nhất là đình Chánh Lộ và đình Ba La. Đình Chánh Lộ được xây dựng rất quy mô, bề thế, nằm ở góc đông bắc của ngã tư chính. Năm 1936, sau dụ của vua Bảo Đại về việc thiết lập đô thị trung tâm Quảng Ngãi, một số kẻ buôn bán câu kết với viên Công sứ Pháp đương nhiệm định xóa sổ đình, nhập vào đô thị Quảng Ngãi. Nhưng dân làng Chánh Lộ đã đấu tranh quyết liệt để bảo vệ đình. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đình Chánh Lộ là nơi triển lãm tranh ảnh của tỉnh Lê Trung Đình. Đình Ba La làm bằng gỗ mít, rất rộng Rộng thình thình như cái đình Ba La – ngạn ngữ, sau Cách mạng tháng Tám cũng được tận dụng cho việc công. Đến năm 1947, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, cả hai đình này cùng với nhiều đình khác bị dỡ bỏ. Ngoài ra, còn có thể kể về đình làng Thu Phố, ở phía tây đường sắt hiện nay. Đình này có thể được dựng khá muộn, khoảng năm Canh Ngọ 1810 hoặc 1870, quanh có la thành, có bình phong, bên trái là nhà hội, bên phải là hưởng ẩm, toàn nhà tranh. Đình gần chợ ông Bố, mặt quay hướng tây, được tu bổ vào năm Khải Định thứ nhất 1916, nay không còn. Di tích thành quách thì có thành Quảng Ngãi, nay chỉ còn lại một ít dấu vết như bờ thành, hào thành. Ở khoảng giữa phường Chánh Lộ tại xóm Tư Văn có văn miếu huyện Chương Nghĩa. Văn miếu được xây dựng từ năm Tự Đức thứ 8 1855, do văn thân trong huyện quyên tiền cất dựng. Văn miếu có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, có xây thành bao quanh, trước cổng miếu có ghi 4 chữ “Văn kỳ tại tư” 文 其 在 斯 lấy từ sách Luận ngữ – có nghĩa là đây có thể là đất văn vậy. Bên trong có xây nhà bia, có tấm bia đá non nước, mặt trước cũng ghi bốn chữ “Văn kỳ tại tư”, mặt sau ghi niên đại dựng bia là năm Thành Thái thứ 9 1898. Thành phố Quảng Ngãi vốn bao gồm nhiều làng quê trù phú, ở đây cũng còn lưu lại nhiều kiến trúc nhà rường, rất tiêu biểu cho nền kiến trúc của người Việt ở Quảng Ngãi. Xét về di sản kiến trúc thì ở thành phố di sản kiến trúc Pháp không đáng kể, di sản kiến trúc đình không còn, nên di sản kiến trúc nhà rường còn tồn tại thật sự là di sản quý, rất đáng để bảo tồn. Văn hóa làng xã vẫn còn dấu ấn đậm nét, nhất là vùng ven, gồm các xã phía đông và các thôn ở phía tây thành phố như Nghĩa Dũng, Quảng Phú. Các tập tục, lễ hội, tín ngưỡng của cư dân nơi đây không khác mấy với các làng quê khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Trong di sản văn hóa phi vật thể trên địa hạt thành phố Quảng Ngãi ngày nay, đáng chú ý có các tri thức, kinh nghiệm của các làng nghề đường kẹo đặc sản, các món ăn đặc sản đường phèn, đường phổi, kẹo gương, cá bống sông Trà kho tiêu, cá thài bai, lịch… Trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, địa bàn thành phố Quảng Ngãi cũng để lại nhiều di tích quý báu như di tích Nhà lao Quảng Ngãi thời Pháp thuộc, di tích 4 dũng sĩ Nghĩa Dũng, di tích 68 liệt sĩ Xuân Mậu Thân… Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền văn hóa cách mạng đã từng bước hình thành ở thành phố Quảng Ngãi, với các hoạt động xây dựng đời sống mới, bãi bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ. Văn hóa đô thị bắt đầu manh nha, trong khi yếu tố văn hóa làng xã vẫn tiếp tục duy trì. Cũng từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, thành phố Quảng Ngãi là một trong những nơi sản sinh các văn nghệ sĩ có tên tuổi trong nước như họa sĩ Đường Ngọc Cảnh, Nghệ sĩ nhân dân Trà Giang, Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi, Nghệ sĩ ưu tú Văn Khánh, Giáo sư Tiến sĩ Lâm Tô Lộc, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm9. Dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn, thị xã Quảng Ngãi còn tiếp thu văn hóa du nhập từ các nước tư bản, trong đó không ít các sản phẩm độc hại, lai căng. Từ sau 1975, thị xã Quảng Ngãi lại tiếp tục xây dựng văn hóa mới theo hướng dân tộc, hiện đại. Việc xây dựng nếp sống văn minh đô thị, giữ gìn vệ sinh môi trường là một vấn đề nổi cộm trong thời kỳ đô thị hóa và cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ. Bên cạnh các thiết chế văn hóa của tỉnh, thành phố Quảng Ngãi có thư viện, có đài truyền thanh, nằm ở đường Quang Trung, các xã, phường có khu sinh hoạt văn hóa. Các di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh lần lượt được lập hồ sơ xếp hạng, tôn tạo. Phong trào văn nghệ, phong trào thể dục, thể thao quần chúng ở thị xã Quảng Ngãi được duy trì và phát triển. Phòng Văn hóa – Thông tin – Thể dục thể thao trụ sở ở đường Phan Chu Trinh là cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Cơ sở hạ tầng đô thị từng bước được cải thiện. Các công viên, quảng trường, nơi vui chơi giải trí đã được xây dựng như Công viên Ba Tơ phía nam cầu Trà Khúc, đê bao sông Trà, Quảng trường tỉnh, Khu thể thao Diên Hồng. Về giáo dục, vùng tỉnh lỵ xưa là địa bàn mà dân cư có tinh thần hiếu học, đã được ghi nhận là nơi có nhiều người đỗ đạt cao thời Nho học. Riêng làng Chánh Mông Chánh Lộ có đến 12 người thi đỗ Cử nhân trở lên trong thời nhà Nguyễn, là làng có số lượng khoa bảng cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi; làng Ba La có 5 người thi đỗ, làng Vạn Tượng có 2 người thi đỗ, làng Thu Phổ có 3 người thi đỗ. Trong số 22 người đỗ Cử nhân trở lên, có 1 Tiến sĩ Tạ Tương, 1 Phó bảng Lê Văn Vịnh, 3 Giải nguyên Bùi Phụ Truyền, Tạ Hàm, Phạm Trinh, 3 Á nguyên Nguyễn Duy Cung, Phạm Viết Duy, Đồng Cát Phủ. Trong số các nhà khoa bảng có Nguyễn Duy Cung là một chí sĩ Cần vương nổi tiếng về khí tiết, thể hiện trong bài Huyết lệ tâm thư10. Thời thuộc Pháp, thị xã Quảng Ngãi có các trường Nam Tiểu học, Cẩm Bàn, Mai Xưa. Thời kháng chiến chống Pháp, thị xã có Trường Trung học Lê Khiết thời kỳ mới thành lập. Thời chính quyền Sài Gòn quản lí, trên địa bàn thị xã tập trung nhiều trường Trung học của tỉnh, như các trường Trung học Trần Quốc Tuấn, Nữ Trung học, Hùng Vương, Bồ Đề, Kim Thông, Chấn Hưng, trường Nông Lâm Súc. Sau 1975, thị xã Quảng Ngãi có các trường Cao đẳng Sư phạm, Trung cấp Y tế, Cao đẳng Cộng đồng thuộc hệ chuyên nghiệp; các trường Trung học phổ thông Trần Quốc Tuấn, Lê Khiết, Lê Trung Đình, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trung học nội trú dân tộc… và là nơi đang xây dựng Trường Đại học Phạm Văn Đồng. Mỗi xã phường đều có trường phổ thông cơ sở. Học sinh trên địa bàn thị xã học giỏi, nhiều người thành đạt. Đây cũng là quê hương của những nhà nghiên cứu tên tuổi như các Giáo sư Tiến sĩ Lâm Tô Lộc, Nguyễn Tấn Đắc, Tiến sĩ Phan Thị Phi Phi… Về y tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi đóng Bệnh viện Đa khoa tỉnh trên đường Hùng Vương, có Trung tâm y tế thành phố và các đơn vị chăm sóc sức khỏe của tỉnh, của thành phố. Để chăm sóc sức khoẻ, từ xưa người dân thị xã chủ yếu dùng Đông y, đến thời Pháp thuộc du nhập thêm Tây y. Các cơ sở Đông, Tây y song song tồn tại đến nay. Việc thực hiện công tác dân số, gia đình khá tốt. Về vấn đề nhân lực, thị xã Quảng Ngãi là nơi tập trung cao nhân lực của toàn tỉnh và có xu hướng ngày càng phát triển mạnh lao động trí tuệ. Tuy vậy, một bộ phận quan trọng trong cư dân lao động chân tay, trong đó số lao động nông nghiệp vẫn chiếm một phần không nhỏ. Trong các vấn đề xã hội ở thành phố Quảng Ngãi, vấn đề công ăn việc làm đặc biệt nổi cộm, vì có số người thiếu việc làm khá đông. Tình trạng nghèo đói, các tệ nạn xã hội cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm. Số hộ nghèo ở thành phố còn khoảng 4,85% theo chuẩn cũ, tuy nhiên, việc vượt lên cuộc sống cao hơn còn là một trở lực lớn. Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung nhiều thành phần dân cư trong và ngoài tỉnh Quảng Ngãi, các dịch vụ phát triển đồng thời kéo theo một số tệ nạn xã hội như trộm cắp, mại dâm, cờ bạc… đòi hỏi phải được chú ý và tìm ra biện pháp quản lý, giải quyết. 1 Số liệu của Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005. 2 Xem chương XXV Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử – văn hoá, danh thắng. 3 Nguồn Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi. 4 Theo Nguyễn Đóa – Nguyễn Đạt Nhơn trong tập Địa dư tỉnh Quảng Ngãi sđd thì vào thời điểm 1938, trong tổng số người của tỉnh Quảng Ngãi có 482 người Tàu, 157 người Pháp, 5 người Ấn Độ; trong đó “người Pháp hầu hết là những quan văn, võ trú tại tỉnh lỵ hoặc tại các cửa, các đồn”, người Tàu chủ yếu trú ở tỉnh lỵ và Thu Xà. 5 Cao Chư Từ tỉnh thành đến thành phố Quảng Ngãi, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr. 80, 81, 82. 6 Nguyễn Đóa – Nguyễn Đạt Nhơn Địa dư tỉnh Quảng Ngãi, Imprimerie Marade Vien-de Huế, 1939. 7 Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi năm 2005 so với Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi có sự chênh lệch chút ít. Riêng số liệu về lao động sản xuất công nghiệp cá thể, chúng tôi theo số liệu trong Niên giám thống kê thành phố Quảng Ngãi. 8 Xem Chương XXV Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử – văn hoá, danh thắng. 9 Xem Chương XXVI Văn học và Chương XXVII Nghệ thuật. 10 Xem Chương XI Các nhân vật lịch sử tiêu biểu và Chương XXVI Văn học.
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung Bô, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của khu vực này. Du lịch Quảng Ngãi nổi tiếng với những bờ biển dài với những bãi tắm cát trắng mịn. Với sự nhộn nhịp của biển cả, những cánh đồng muối trải dài, ghềnh đá, hải sản,… tất cả đã tạo nên một sức hút riêng với khách du lịch khi đặt chân đến vùng đất này. Và bây giờ chúng ta hãy cùng nhau trải nghiệm chuyến đi du lịch Quảng Ngãi qua bài viết này nhé! Thời gian nào đến Quảng Ngãi thì thích hợp? Mang cho mình đặc điểm của khí hậu miền Trung. Thời tiết Quảng Ngãi có 2 mùa mùa mưa và mùa khô. Vào mùa nào thì Quảng Ngãi cùng có cho mình một vẻ đẹp riêng. Tháng 2 đến tháng 4 đây là thời điểm đầu năm. Không khí mùa xuân với những lễ hội sẽ cho bạn những trải nghiệm tuyệt vời. Tháng 5 đến tháng 7 hè về là thời gian lý tưởng để đến với những bãi biển của Quảng Ngãi. Đây cũng là thời gian tuyệt vời để khám phá Lý Sơn. Tháng 8 đến tháng 9 tiết trời thu mát mẻ thích hợp cho các chuyến tham quan Thời gian còn lại là khoảng thời gian mưa bão của miền Trung. Nếu bạn muốn đi du lịch Quảng Ngãi thời gian này thì hãy chú ý thời tiết nhé. Di chuyển bằng phương tiện gì tới Quảng Ngãi Đi bằng Máy Bay Vì hiện tại chưa có chuyến bay thẳng nên bạn có thể bay đến sân bay Chu Lai, Quảng Nam. Sau đó di chuyển bằng đường bộ về Quảng Ngãi. Đi bằng xe khách Có rất nhiều nhà xe khai thác tuyến đi này, tùy vào từng thành phố mà bạn xuất phát, giá xe dao động từ đến Tuy tốn nhiều thời gian những đây là phương tiện tiết kiệm chi phí nhất cho chuyến đi du lịch Quảng Ngãi của bạn. Đi bằng tàu hỏa Tùy vào thành phố mà bạn xuất phát và loại ghế mà bạn chọn thì giá tàu giao động từ khoảng đến 1 triệu 2 Những điểm thăm quan hấp dẫn tại Quảng Ngãi Đảo Lý Sơn Đây là một điểm thăm quan vô cùng hấp dẫn mà bạn nên ghé qua trong chuyến đi du lịch Quảng Ngãi của mình. Đảo Lý Sơn cách thành phố Quảng Ngãi tầm 40km, nơi đây nổi tiếng với biệt danh “vương quốc tỏi” bởi cây tỏi được trồng rất nhiều trên hòn đảo này. Tuy nhiên, điểm thu hút dân du lịch hơn hết chính là màu nước biển trong xanh,khung cảnh thơ mộng và đẹp đến ngỡ ngàng. Vì thế mà ở đây có rất nhiều khách sạn Lý Sơn view đẹp để ngắm nhìn bình minh sáng sớm. Đứng trước khung cảnh đó, bạn có thể cảm thấy mình thật tự do và thoải mái bởi màu xanh của biển hòa hợp cùng màu xanh của cây cỏ lúc nào cũng mang lại sự bình yên và nhẹ nhàng. Bãi biển Mỹ Khê Không chỉ Đà Nẵng có bãi biển Mỹ Khê xinh đẹp mà ở Quảng Ngãi cũng có một bãi biển cùng tên nổi tiếng không kém. Bãi biển Mỹ Khê Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 7km mà xung quanh lại được bao bọc bởi rừng dương xanh bát ngát. Theo kinh nghiệm của một số bạn đi du lịch Quảng Ngãi chia sẻ thì bạn có thể mang theo lều trại, bếp nướng để tới bãi biển này cắm trại và tổ chức tiệc nướng hải sản ngay trên bãi biển. Biển Dung Quất Những nét hồn nhiên của bờ biển cùng khung cảnh thơ mộng ở bờ biển Dung Quất luôn mang một nét gì đó độc đáo khiến cho không ít người phải cảm thấy ngỡ ngàng về sự thơ mộng yên bình của bờ biển nơi này. Có lẽ điều kỳ diệu nhất cho một hành trình khám phá mới đó là thưởng ngoạn khung cảnh mộng mơ nơi đây và thả hồn về với biển, về với thiên nhiên dịu nhẹ Biển Khe Hai Được ví như lưỡi liềm cùng những bờ cát trắng, bãi biển Khe Hai đang dần trở nên thu hút rất đông đảo các khách du lịch tới tham quan và khám phá. Sự mộng tưởng kỳ lạ hay những nét bình yên vô cùng dịu dàng luôn mang đến cho mọi người cảm giác khó quên về một vùng biển đẹp và rất bình yên thơ mộng. Đồng muối Sa Huỳnh Đồng muối Sa Huỳnh thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi vốn đã được biết đến từ lâu qua những bức ảnh vô cùng nghệ thuật của nhiều nhiếp ảnh gia trong nước và quốc tế. Nơi đây là vựa muối quan trọng của khu vực miền Trung, nghề làm muối ở Sa Huỳnh đã từng đi vào nhiều câu thơ, câu ca của Việt Nam. Khu du lịch thác Trắng Khu du lịch thác Trắng thuộc huyện Minh Long và cách thành phố Quảng Ngãi tầm hơn 20km. Khung cảnh ở đây thực sự ấn tượng bởi rừng núi hoang sơ, trong lành, dòng thác đổ xuống giữa khung cảnh bao quanh là biết bao cây cối, sông suối tung bọt trắng xóa. Đi du lịch Quảng Ngãi, bạn đừng bỏ qua nơi đây bởi bạn sẽ có ngay những bức ảnh sống ảo với view đẹp quên sầu ngay tại đây. Khu lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng Khu lưu niệm cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có vị trí tọa lạc tại xã Đức Tân – Mộ Đức – Quảng Ngãi, nơi đây đang được coi là nơi lưu giữ rất nhiều những kỷ vật, những món đồ vô cùng sâu sắc khiến không ít người khi tham quan sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ và những nét mới mẻ vô cùng. Sự đánh giá và hiểu thấu sẽ làm cho tất cả như được về cuộc sống của ngài. Những món ăn hấp dẫn ở Quảng Ngãi Bánh Bèo Nhắc đến những đặc sản ở Quảng Ngãi thì không thể bỏ qua bánh bèo. Bánh bèo Quảng Ngãi có phần giống với bánh bèo chén ở Huế nhưng bánh bèo Quảng Ngãi có vẻ đầy đặn hơn do được đúc dày hơn, phần nhân cũng được làm đậm đà hơn tạo nên nét riêng biệt của món ăn. Bánh tráng đập Ở cuối đường Trương Quang Trọng là một trong những quán ăn ngon ở Quãng Ngãi nổi tiếng với món bánh tráng đập. Bạn sẽ được thưởng thức món bánh tráng đập vừa giòn vừa dẻo này cùng với nước chấm pha theo công thức đặc biệt tuyệt vời. Món don Món don là một món ăn dân dã nổi tiếng của người Quảng Ngãi. Chỉ cần ăn một lần thôi, bạn sẽ nhớ mãi hương vị đặc biệt độc đáo chỉ có ở vùng đất này. Ram bắp Theo kinh nghiệm du lịch Quảng Ngãi, bạn nên thử đến quán ăn đường Phan Đình Phùng vì đây là một địa chỉ quán ăn ngon ở Quảng Ngãi rất nổi tiếng. Ở đây có món ram bắp gần giống với chả giò miền Bắc, điều khác biệt là ở nguyên liệu chính làm nên món Ram bắp là từ bắp ngô non. Trên đây là một số thông tin và kinh nghiệm đi du lịch Quảng Ngãi mà mình đã tìm hiểu và tổng hợp được. Mong rằng những thông tin này sẽ giúp ích cho các bạn trong tương lai. Chúc các bạn có những chuyến đi thật vui vẻ và bổ ích. MUỐN ĐI DU LỊCH HÃY ĐẾN VỚI CÔNG TY DU LỊCH SACO
I. Thông tin khái quátQuảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Đường bờ biển Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 129 km với vùng lãnh hải rộng lớn km2 và 6 cửa biển vốn giàu nguồn lực hải sản với nhiều bãi biển đẹp. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam. Tỉnh Quảng Ngãi tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Điều kiện tự nhiênQuảng Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′ đến 15°25′ Bắc, từ 108°06′ đến 109°04′ Đông, tựa vào dãy núi Trường Sơn hướng ra biển Đông với chiều dài bờ biển 144 km, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam với chiều dài đường địa giới 98 km, phía Nam giáp tỉnh Bình Định với chiều dài đường địa giới 83 km, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum với chiều dài đường địa giới 79 km, phía Đông giáp biển Đông. Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 890 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 824 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A. + Địa hình Quảng Quảng Ngãi có địa hình tương đối phức tạp, có xu hướng thấp dần từ tây sang đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía tây của tỉnh là sườn Đông của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển. Khí hậu ở Quảng Ngãi là khí hậu nhiệt đới và gió mùa, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú, nhiệt độ trung bình 25-26,9 °C[6]. Khí hậu nơi đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt, gồm có mùa mưa và mùa nắng. Đất đai trong địa bàn tỉnh được chia làm 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 68 đơn vị đất phụ. Các nhóm đất chính là cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa, đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn trơ trọi đá. Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng với hơn 74,65% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông chiếm 19,3% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… Đất Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp với trồng mía và các cây công nghiệp ngắn ngày. + Khí hậu Quảng Ngãi có khí hậu nhiệt đới và gió mùa. Nhiệt độ trung bình 25 độ C đến 28 độ C, thượng tuần tháng 7 và tháng 8 nóng không quá 34 độ C, thượng tuần tháng giêng lạnh nhất không dưới 18 độ C. Thời tiết Quảng Ngãi được chia làm 2 mùa mưa, nắng rõ rệt. – Mùa mưa Từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng giêng âm lịch. – Mùa nắng từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng 8 âm lịch. Ngoài ra thời tiết Quảng Ngãi còn được chia thành bốn tiết – Tiết xuân vào khoảng tháng giêng đến tháng 3 âm lịch. khí hậu mát mẻ, hoa lá xanh tươi, thỉnh thoảng có mưa phùn nhưng không mang hơi lạnh như sương mù cao nguyên. – Tiết hạ từ tháng 4 âm lịch đến cuối tháng 9 âm lịch, mát mẻ, nắng gắt có những trận mưa dông lớn. Thường thường sau những cơn dông khí hậu dễ chịu hơn. – Tiết thu Từ tháng 7 âm lịch đến cuối tháng 9 âm lịch, mát mẻ. Những buổi chiều tối thường có mưa, mực nước sông thường dâng cao, gây nên lụt lớn 1964 nhưng đôi khi mưa nắng kéo dài đến tháng 8 và nhiệt độ không kém nhiệt độ tháng 4 tháng 5. Cho nên ở địa phương có câu “nắng tháng 8 nám trái bưởi” – Tiết đông Từ tháng 10 âm lịch đến tháng 12 âm lịch với những cơn mưa dầm kéo dài suốt tháng, gió bấc lạnh se da, tuy nhiên thường sau 23 tháng 10 âm lịch không còn những trận lụt lớn. – Gió mùa Từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến tháng 8 âm lịch, gió thổi từ Đông Nam qua Tây Bắc, hết sức mát mẻ dễ chịu gọi là gió Nồm. Vào những tháng nóng bức, thỉnh thoảng có gió từ Tây Nam thổi đến gọi là gió Nam nóng bức, gây thiệt hại cho hoa màu. Từ tháng 9 âm lịch gió thổi từ Đông Bắc vào Tây Nam đem hơi lạnh gọi là gió Bấc. Quảng Ngãi có mưa, đặc biệt lượng trung bình hằng năm nhưng chỉ tập trung vào 8 đến tháng 12, còn các tháng khác thì khô hạn. Trung bình hàng năm có 129 ngày mưa. Sự phân phối lượng mưa không đều cũng như sự kéo dài mùa khô hạn rất có hại cho cây hoa màu, đất đai và gây khó khăn cho việc tưới tiêu. Đặc biệt ở Quảng Ngãi các trận bão chỉ thể xảy ra trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 dương lịch nhất là hai tháng 10 và 11. Nguồn + Sông ngòi và chế độ thuỷ văn Trên bình diện địa hình, vùng Quảng Ngãi có 04 con sông lớn là Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Các con sông này có đặc trưng chung là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến, phân bố khá đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi. Ngoài 04 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích Trà bồng, sông Cái Tư Nghĩa, sông Phước Giang Nghĩa Hành, sông La Vân Đức Phổ,… Sông ngòi Quảng Ngãi đều xuất phát từ Đông Trường Sơn và chảy ra biển Đông. Dòng sông ngắn, độ dốc cao từ 10,5 độ đến 33 độ, lòng sông cạn và hẹp nên vào mùa mưa có lượng mưa rất nhiều dòng chảy cường độ mạnh, thường gây ra lũ lụt lớn, gây tác hại cho sản xuất và đời sống, mặt khác cũng mang về cho đồng bằng một lượng phù sa đáng kể. Với mạng lưới sông suối dày đặc, các phụ lưu của hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ và Trà Câu đều bắt nguồn từ những vùng núi cao có độ dốc lớn với lượng nước nhiều là những nguồn thuỷ năng có giá trị. Ở các huyện miền núi nhân dân đã đắp đập để làm thuỷ điện. Đặc trưng thủy văn các sông chính tỉnh Quảng Ngãi Sông Chiều dài sông km Chiều dài lưu vực km Chiều rộng lưu vực km Diện tích lưu vực km2 Trà Bồng 45 56 12,4 697 Trà Khúc 135 123 26,3 Sông Vệ 90 70 18,0 Trà Câu 32 19 14,0 442 Điều kiện xã hội + Dân số Tính đến năm 2014 dân số tỉnh Quảng Ngãi khoảng người, mật độ dân số đạt 241 người/km² trong đó dân sống tại thành thị là người, dân số sống tại nông thôn là người. Dân số nam là người, trong khi đó nữ là người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 10,2 ‰. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống, trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với người, thứ hai là người Hrê với người, thứ ba là người Co với người, người Xơ Đăng có người, cùng với các dân tộc ít người khác như Hoa, Mường, Tày, Thái… Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 10 tôn giáo khác nhau chiếm người, trong đó nhiều nhất là Phật giáo với người, Đạo Tinh Lành có người, Công giáo có người, Đạo Cao Đài có người, còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật Giáo Hòa Hảo mỡi đạo có 3 người, Bà la môn và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có 2 người, ít nhất là Bửu sơn kỳ hương và Bahá’í mỗi đạo có 1 người. Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của cả nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2010 là năm đầu tiên tỉnh Quảng Ngãi thu ngân sách nhà nước đạt tỷ đồng, GDP bình quân đầu người tăng từ 773 USD lên USD. Tổng sản phẩm trong tỉnh GDP năm 2011 ước đạt tỷ đồng, GDP bình quân đầu người tăng từ USD năm 2010 lên USD năm 2011, thấp hơn kế hoạch đề ra là USD. Trong đó, khu vực công nghiệp – xây dựng ước đạt 4. 904,52 tỷ đồng, dịch vụ ước đạt 2. 674,72 tỷ đồng, nông lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 1. 727,99 tỷ đồng. Về ngành đánh cá, tỉnh có gần tàu cá với 7 nghiệp đoàn nghề cá gồm đoàn viên 2014. Trong đó 405 tàu đánh bắt tại Hoàng Sa, Trường Sa. Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh GDP đạt tỷ đồng, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2011 và bằng 47,3% so với kế hoạch năm 2012. Trong đó, sản xuất nông lâm thủy sản đạt 806,4 tỷ đồng, công nghiệp – xây dựng đạt tỷ đồng, khu vực dịch vụ đạt tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt tỷ đồng, Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 196,07 triệu USD, Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng ước đạt tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt tỷ đồng. Ước đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, trên địa bàn tỉnh có doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa. Về lĩnh vực chăn nuôi, tại thời điểm ngày 01 tháng 4 tháng 2012, đàn lợn của Quảng Ngãi ước đạt 481 ngàn con, đàn trâu có con, đàn bò có con, đàn gia cầm có 3,37 triệu con. So với thời điểm 01 tháng 4 năm 2011, đàn lợn giảm 3,9%, đàn trâu tăng 6,8%, đàn bò giảm 3,2%. Bò lai chiếm 48,3% tổng đàn. + Giao thông Quảng Ngãi là đầu mối giao thông quan trọng xuyên suốt trên địa bàn tỉnh, có Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam chạy qua tỉnh. Trong đó chiều dài Quốc lộ 1A qua tỉnh dài 98 km. Quốc lộ 24 nối liền Quốc lộ 1A đoạn qua Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi với Kon Tum dài 69 km và Quốc lộ 24B dài 18 km, đây là tuyến giao thông quan trọng đối với Kon Tum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa duyên hải và Tây Nguyên, giao lưu trao đổi hàng hoá, phát triển kinh tế miền núi gắn với an ninh quốc phòng[20]. Phía Bắc tỉnh, tại huyện Bình Sơn có sân bay Chu Lai đã đưa vào hoạt động, tại đây có cảng nước sâu Dung Quất. Ngoài ra, với bờ biển dài 144 km, Quảng Ngãi có nhiều cửa biển, cảng biển nhỏ như Sa Kỳ, Sa Cần, Bình Châu, Mỹ Á,… có tiềm năng về giao thông đường thủy, thương mại và du lịch[21][22 Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Chăm Pa, đặc biệt là hệ thống thành lũy Chàm. Bên cạnh đó là hai danh thắng nổi tiếng là “núi Ấn sông Trà”. Quảng Ngãi là quê hương của Lê Văn Duyệt, Trương Định, Trương Đăng Quế, Bạch Văn Vĩnh, Lê Trung Đình, nhiều nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ, nghệ sỹ tên tuổi Nguyễn Vỹ, Bích Khê,Thanh Thảo, Tế Hanh, Trà Giang, Trương Quang Lục, Thế Bảo, Nhất Sinh… Các Lễ hội gồm Lễ hội nghinh cá Ông, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa Lý Sơn, Lễ hội đâm trâu, Lễ hội cầu ngư, Lễ hội đua thuyền truyền thống… Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá lâu đời như khu du lịch văn hoá Sa Huỳnh, dấu vết văn hoá cổ xưa như thành cổ Châu Sa, Gò Vàng…, có di tích lịch sử Ba Tơ, Sơn Mỹ, Ba Gia, Trà Bồng, Vạn Tường, nhiều cảnh đẹp như Thiên Ấn, Niêm Hà, Thiên Bút, Phê Vân, Thạch Bích, Tà Dương, Cổ Luỹ, Cô Thôn, Nước Trong – Ca Đam…, nhiều bãi biển như Mỹ Khê, Sa Huỳnh…, những tiềm năng trên là điều kiện để phát triển du lịch nghỉ dưỡng với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch đa dạng. Năm 2015, nhà đầu tư Vingroup dự kiến sẽ xây Khu nghỉ dưởng Vinpearl Land Resort tại Bình Châu, Huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi và Trung tâm Thưong Mại Vincom tại Thành phố Quảng Ngãi. Nguồn II. Khu vực miền núi Theo quyết định 964/QĐ-TTg ban hành ngày 30/6/2015 của Thủ tướng Chính Phủ, tỉnh Quảng Ngãi có 4 huyện nằm trong Danh mục địa bàn ưu tiên thực hiện chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015 – 2020, bao gồm huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Đức Phổ, Sơn Hà, Ba Tơ, Mộ Đức và huyện đảo Lý Sơn.. Trong đó, khu vực miền núi của tỉnh Quảng Ngãi gồm có các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Đức Phổ, Sơn Hà, Ba Tơ và huyện Mộ Đức. Quảng Ngãi có 6 huyện miền núi được Nhà nước hỗ trợ đầu tư thông qua Nghị quyết 30a của Chính phủ. Qua 6 năm thực hiện, bộ mặt nông thôn các huyện miền núi của tỉnh đã có những sự đổi thay tích cực. Đặc biệt là hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp cơ bản, góp phần rất lớn trong công cuộc giảm nghèo bền vững của địa phương. Trong 6 năm 2009 – 2014, tỉnh Quảng Ngãi được TW hỗ trợ tỷ đồng thực hiện Nghị quyết 30a cho 6 huyện nghèo trên địa bàn, trong đó, vốn đầu tư phát triển hơn tỷ đồng, Vốn sự nghiệp hơn 323 tỷ đồng. Ngoài ra, TW cũng đã phân bổ trên 595 tỷ đồng để thực hiện các chính sách, dự án giảm nghèo khác. Để có thể giảm nghèo nhanh và bền vững, Quảng Ngãi chủ trương thực hiện lồng ghép nhiều chương trình, dự án đầu tư cùng lúc, như Chương trình 30a, 135, 134…Nhờ vậy mà người dân được hưởng lợi, rút ngắn về mặt thời gian, quá trình đầu tư, tạo ra sự thay đổi căn bản trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân ở các vùng khó khăn. Cụ thể, từ nguồn vốn hỗ trợ của TW và nguồn vốn huy động khác, các địa phương đã đầu tư xây dựng 254 công trình hạ tầng như trường học, trạm y tế, giao thông, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, điện thắp sáng, nhà văn hoá,… thuộc Chương trình 30a; đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, sửa chữa 262 công trình cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn và các thôn đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II của tỉnh thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo; đầu tư 351 công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn 43 xã và 31 thôn đặc biệt khó khăn của tỉnh. Đặc biệt, từ nguồn vốn hỗ trợ của Nghị quyết 30a, các địa phương đã tổ chức đào tạo nghề gắn với việc làm tại chỗ cho lao động. Nhiều lao động sau khi được đào tạo nghề đã tìm được việc làm, tham gia xuất khẩu lao động, có lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài có thu nhập ổn định và gửi về cho gia đình, góp phần phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương. Tận dụng tối đa, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận với nguồn vốn NHCSXH là cách làm thiết thực của Quảng năm qua các huyện ở miền núi đã từng bước quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh, với sản lượng hàng hóa khá lớn, như cây mía, cây mì, rừng quế và rừng keo nguyên liệu. Các cây này không chỉ khai thác, cải tạo được diện tích đất trồng, thích hợp với thổ nhưỡng mà còn phù hợp với trình độ người dân, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Gia đình anh Phạm Văn Mật ở thôn Nước Lá, xã Ba Vinh là một trong những hộ nghèo có “thâm niên” của huyện Ba Tơ. Với quyết tâm vượt qua cái nghèo, năm 2006 anh vay NHCSXH 10 triệu đồng. Sau nhiều năm khai hoang và phát triển diện tích trồng keo, hiện nay anh đã có 5ha keo, 4ha mía thu nhập gần 60 triệu đồng/năm. Tại huyện Sơn Hà, sau khi triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo được Nhà nước đầu tư, NHCSXH cho vay vốn phát triển sản xuất, chăn nuôi diện mạo của huyện đã và đang có những chuyển biến tích cực. Ngay ở những buôn làng xa xôi nhất, những trang trại nhỏ, những mô hình kinh tế trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả của hộ gia đình xuất hiện ngày càng nhiều. Chị Đinh Thị Sen ở thôn Làng Đèo, xã Sơn Trung là ví dụ điển hình. Năm 2013, được NHCSXH cho vay 30 triệu đồng để cải tạo đất hoang tăng diện tích trồng trọt, nuôi thêm heo, trâu, vịt gà… Đến nay, gia đình chị đã thoát nghèo và có cuộc sống ổn định. Có thể khẳng định, với sự “trợ lực” từ Chương trình 30a đã góp phần quan trọng giảm nghèo nhanh, bền vững trên địa bàn 6 huyện miền núi của tỉnh. Hầu hết các hộ nghèo đều được tiếp cận và thụ hưởng chính sách giảm nghèo của Nhà nước. Các chính sách giảm nghèo đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo được chuyển biến đáng kể đối với cuộc sống người dân. Bình quân hàng năm, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo của tỉnh giảm 6,3%, đạt kế hoạch đề ra. Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo tại 6 huyện nghèo giảm từ 60,87% trong năm 2010 xuống còn 34,82% vào năm 2014. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tập huấn, huấn luyện đạt trên 22 – 27%; lao động có việc làm đạt 19 – 24%. Hạ tầng cơ sở tại các huyện nghèo được đầu tư đồng bộ để đạt tiêu chí nông thôn mới. Tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã và thông suốt 4 mùa đạt 100%. Tuy nhiên, đời sống của người dân vùng miền núi của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy, 6 huyện nghèo của tỉnh rất cần sự chung tay, góp sức nhiều hơn nữa của cả xã hội để người dân nơi đây có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. IV. Khu vực hải đảo Khu vực hải đảo của tỉnh Quảng Ngãi có huyện Lý Sơn Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi, nằm chếch về phía đông bắc tỉnh, cách đất liền 15 hải lý. Diện tích 9,97km2. Dân số người năm 2005. Mật độ dân số người/km21. Đơn vị hành chính trực thuộc gồm 3 xã An Vĩnh, An Hải, An Bình; huyện lị đóng ở xã An Vĩnh, với 6 thôn; trong đó Xã An Vĩnh nằm trên đảo lớn có 2 thôn thôn Đông, thôn Tây; Xã An Hải nằm trên đảo lớn có 3 thôn Đồng Hộ, thôn Đông, thôn Tây; Xã An Bình nằm trên đảo bé có 1 thôn thôn Bắc. Huyện Lý Sơn nối với tỉnh lỵ chủ yếu bằng đường biển qua cửa biển Sa Kỳ. Tuy là một đảo nhỏ nhưng Lý Sơn có vị trí quan trọng về kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh Quảng Ngãi. Cư dân ở huyện đảo này là người Việt đã định cư và tạo lập được nhiều di sản văn hóa quý báu. Đánh cá, trồng hành tỏi là sinh hoạt kinh tế đặc thù của huyện đảo. – Về hành chính đảo Lý Sơn có dân cư từ lâu đời, nhưng trở thành đơn vị hành chính cấp huyện lại chưa lâu. Thuở xưa, cư dân ở Lý Sơn còn ít ỏi nên cơ chế hành chính chủ yếu phụ thuộc vào đất liền. Vị trí quân sự được chú ý từ xưa. Giữa thế kỷ XV, Bắc quân Đô đốc Bùi Tá Hán đem quân nhà Lê Trung hưng vào diệt Mạc, lấy lại thừa tuyên Quảng Nam, đã đi theo đường biển và đổ quân lên đảo để diễn tập. Trước kia, Lý Sơn có một ít người Chăm sinh sống nhưng chưa thấy tư liệu nào nói đến việc hoạch định đơn vị hành chính ở Lý Sơn. Từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII dưới thời Lê Trung hưng và các chúa Nguyễn, cư dân Việt từ đất liền ra đây lập nghiệp, lập An Hải phường và An Vĩnh phường. Đời vua Gia Long, năm 1808, Lý Sơn đặt thành một tổng thuộc huyện Bình Sơn, gọi là tổng Lý Sơn, vẫn có hai phường. Đời vua Đồng Khánh, hai phường Lý Sơn An Vĩnh và Lý Sơn An Hải nằm trong tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn, về sau lại đặt tổng Lý Sơn. Thời Pháp thuộc, đảo Lý Sơn có tên Pháp là Paulo Canton. Năm 1931, tổng Lý Sơn đặt là đồn Lý Sơn trực thuộc tỉnh, có một viên Bang tá cai trị, nặng về quân sự. An Hải phường đổi thành xã Hải Yến, An Vĩnh phường đổi thành xã Vĩnh Long. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đảo Lý Sơn được gọi là tổng Trần Thành với hai xã Dương Sạ Hải Yến cũ và Vĩnh Long. Năm 1946, tổng Trần Thành đổi thành xã Lý Sơn, một trong các xã thuộc huyện Bình Sơn, có Uỷ ban kháng chiến hành chính xã. Năm 1951, quân Pháp đánh chiếm đảo Lý Sơn và thiết lập ở đảo một khu vực hành chính, nhập vào thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1954 đến năm 1975, Lý Sơn có hai xã Bình Vĩnh, Bình Yến thuộc quận Bình Sơn dưới thời chính quyền Sài Gòn. Sau giải phóng 1975, hai xã vẫn giữ nguyên tên cũ và thuộc huyện Bình Sơn. Ngày huyện Lý Sơn được thành lập, hai xã của huyện là Bình Vĩnh và Bình Yến đổi tên là xã Lý Vĩnh và xã Lý Hải. Đến năm 2003, các tên xã đổi lại theo tên gọi truyền thống là xã An Vĩnh và xã An Hải. Do đặc thù nằm ở một hòn đảo cách biệt, thôn Bắc xã Lý Vĩnh đảo Bé đồng thời tách lập thành một xã gọi là xã An Bình. Huyện Lý Sơn có 3 xã An Vĩnh, An Hải, An Bình như đã kể trên. – Về tự nhiên Lý Sơn là một đảo nhỏ nằm trong vùng nội thủy của Việt Nam, bốn phía là biển. Lý Sơn là một cụm 3 đảo như những ngọn núi nhô cao giữa biển. Đảo lớn nhất là đảo Lý Sơn hay còn gọi là đảo Lớn, cù lao Ré, vì ở đây có nhiều cây ré một loài thực vật mọc hoang với năm hòn núi được gọi là Ngũ Linh núi Thới Lới, Hòn Tai, Hòn Sỏi, núi Giếng Tiền, Hòn Vung, trong đó núi Thới Lới lớn nhất. Xưa ở Lý Sơn có nhiều rừng, có suối, như rừng suối Truông, rừng Nhợ, rừng Cây Gạo, rừng Bà Bút, suối Chình, suối Ốc… Trong đó có loài cây dầu du thuỷ được nhà nước phong kiến chú ý và bắt nộp thuế sản vật. Rừng đã bị tàn phá từ nhiều đời trước và suối nước không còn. Đảo có các trảng bằng chủ yếu nằm dọc ở phía nam đảo, là khu dân cư và đất canh tác. Đảo Bé nhỏ, nằm ở phía tây bắc đảo Lớn, còn gọi là cù lao Bờ Bãi, có cư dân ở nay là xã An Bình. Phía đông nam đảo lớn có hòn Mù Cu, một bãi đất đá nhô lên giữa biển, không có người ở. Vùng biển ở đảo Lý Sơn có nhiều cá, nhiều loại hải sản, nhiều san hô. Lý Sơn có nhiều hang động tự nhiên như hang Câu, hang Cò, hang Kẻ Cướp, và nhiều vết tích miệng núi lửa đã tắt. Trong tổng số 997 ha diện tích đất tự nhiên, tình hình sử dụng đất tính ở thời điểm năm 2005 như sau 1 Đất nông nghiệp 392ha; 2 Đất lâm nghiệp 171ha; 3 Đất chuyên dùng 159ha; 4 Đất khu dân cư 55ha; 5 Đất chưa sử dụng 220ha. Lý Sơn là đảo ven bờ, nên xưa kia, các thuyền buôn với điều kiện kỹ thuật thô sơ thường ghé dừng lại nơi đây và để lại nhiều dấu ấn đậm nét trong giao lưu buôn bán và văn hóa. Thời Pháp thuộc, ở cánh gà phía đông bắc thuộc xã An Hải trên đảo Lớn đã xây dựng trụ đèn biển còn tồn tại đến ngày nay. Bọn cướp biển Tàu Ô xưa kia cũng thường ẩn nấp ở đây, nay còn lưu truyền địa danh hang Kẻ Cướp. Huyện đảo Lý Sơn có một vị trí xung yếu về quốc phòng. Là một hải đảo, Lý Sơn ngoài những đặc điểm chung là khí hậu nhiệt đới gió mùa ở vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, còn có đặc điểm riêng dễ khô hạn về mùa nắng, thiếu nước ngọt để sinh hoạt, chịu nhiều giông bão về mùa mưa. Năm 2005, nhiệt độ trung bình là 26,40oC, lượng mưa giờ nắng trong năm giờ, độ ẩm trung bình 86,6%. – Về dân cư Do đặc thù cách biệt với đất liền, lại không chịu sự tàn phá của chiến tranh, mà văn hóa do người Việt tạo lập tại Lý Sơn mang rất đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền và các di sản được lưu giữ khá tốt, ít bị mất mát, hư hại, tuy việc học ở đảo phát triển chậm hơn nhiều so với đất liền. Dân số trên đảo Lý Sơn có sự phát triển khá nhanh. Năm 1930 – 1931, số dân có khoảng người. Năm 1962, số dân có khoảng người. Năm 1990, số dân có khoảng người. Năm 2000, số dân có khoảng người. Năm 2004, số dân có khoảng người. Năm 2005, số dân là người. Mật độ dân số ở Lý Sơn năm 2005 là người/km2, cao gấp 8 lần so với mật độ dân số trung bình trong tỉnh Quảng Ngãi 250 người/km2, vốn đã rất cao, chỉ thấp hơn thành phố Quảng Ngãi và cao tuyệt đối so với các huyện khác. Mật độ dân số cao, mà số đông vẫn là làm nông đã đặt áp lực dân số rất lớn ở đảo. Tình hình diện tích, phân bố dân cư tương đối cân phân giữa 2 xã trên đảo Lớn, riêng xã An Bình biệt lập ở đảo Bé do điều kiện khó khăn, cư dân thưa hơn, như bảng kê sau đây của năm 2005 TT Xã Diện tích km2 Dân số người Mật độ dân số người/km2 1 An Vĩnh 4,25 2 An Hải 5,09 3 An Bình 0,63 439 697 – Về kinh tế Lý Sơn chủ yếu là kinh tế nông – ngư nghiệp. Tuy ở đảo nhỏ hẹp, khó khăn về nguồn nước, nhưng dân cư sống bằng nghề nông vẫn chiếm nhiều nhất. Cụ thể năm 2005, trong tổng số lao động thì đã có lao động nghề nông, lao động ngư nghiệp, 635 lao động công nghiệp và xây dựng, 615 lao động thương mại – dịch vụ. Trong nông nghiệp, Lý Sơn không trồng được lúa, chỉ trồng trọt các loại cây lương thực, thực phẩm khác. Lúa gạo chủ yếu mua từ đất liền chở ra đảo. Có nhiều cây trồng rất phổ biến ở đất liền Quảng Ngãi nhưng có rất ít ở Lý Sơn như cây dâu, cây mía, vì đất đai trồng trọt ở đảo rất hạn hẹp đất nông nghiệp 392ha, lại thiếu nguồn nước tưới. Người dân Lý Sơn từ xưa chủ yếu trồng cây ngô, đậu, gai đay, rau và khoai lang, khoai mì. Từ khoảng năm 1960, cây hành, cây tỏi được trồng phổ biến và trở thành cây trồng đặc chủng của Lý Sơn vì nó tỏ ra rất thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết ở đảo. Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt ở huyện Lý Sơn chỉ vỏn vẹn 243ha năm 2004, với sản lượng cây lương thực có hạt chỉ có tấn trong đó xã An Vĩnh 817 tấn, xã An Hải 669 tấn, bình quân 74,60kg/người/năm; năm 2005 sản lượng lương thực là tấn xã An Vĩnh 838 tấn, xã An Hải 686 tấn, bình quân lương thực đầu người 76kg, thấp tuyệt đối so với tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh Quảng Ngãi. Lương thực được tính chỉ là ngô. Tuy nhiên, lương thực không phải là nguồn sống chính của cư dân Lý Sơn. Cho đến nay, việc trồng hành, tỏi vẫn rất thịnh đạt, hành tỏi Lý Sơn ngon nổi tiếng không chỉ trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi. Nhờ hành tỏi, nông dân ở Lý Sơn có đời sống tương đối ổn định. Thời điểm 2005, diện tích trồng tỏi là 297ha, sản lượng tấn trong đó xã An Vĩnh 146ha, 796 tấn; xã An Hải 151ha, 761 tấn; diện tích trồng hành 282,4ha, sản lượng tấn trong đó xã An Vĩnh 139ha, 898 tấn; xã An Hải 117,4ha, 671 tấn; xã An Bình 26ha, 221 tấn. Dưa hấu phát triển. Năm 2005, có 49ha dưa hấu với sản lượng 400 tấn. Tuy nhiên, việc trồng hành tỏi ở Lý Sơn không phải dễ dàng. Hằng năm, người nông dân phải tải đất đỏ từ trên cao về trải đều trên mặt đất, lại tải cát từ bãi biển lên trải ở lớp trên, để có đất tốt cho cây phát triển. Không chỉ tốn quá nhiều công sức, việc lấy đất cát như vậy còn có tác hại đến môi trường, gây tình trạng sạt lở, sóng biển xâm thực, biển lấn sâu vào đảo. Ngoài ngô, hành, tỏi, ở Lý Sơn còn trồng một số loại cây khác, cụ thể như sau3 1 Rau năm 2004 diện tích 580ha, sản lượng tấn; năm 2005 diện tích 595ha, sản lượng tấn; 2 Đậu các loại năm 2004 diện tích 30ha, sản lượng 36 tấn; năm 2005 diện tích 28ha, sản lượng 28 tấn; 3 Vừng năm 2004 diện tích 125ha, sản lượng 59 tấn không có số liệu năm 2005. Bên cạnh trồng trọt, người dân Lý Sơn còn chăn nuôi, chủ yếu là bò 803 con, heo con, dê 294 con, gà vịt trên con tính ở thời điểm Trong 803 con bò năm 2005, xã An Vĩnh có 307 con, xã An Hải có 479 con, xã An Bình có 17 con. Trong tổng đàn lợn con, xã An Vĩnh có con, xã An Hải có con, xã An Bình có 16 con. Như vậy, chăn nuôi chỉ đáng kể nhất ở hai xã An Vĩnh, An Hải trên đảo Lớn và số lượng của hai xã không chênh lệch nhau nhiều. Lao động ngư nghiệp ít hơn lao động nông nghiệp, nhưng về giá trị sản xuất, thủy sản ở Lý Sơn lại cao gấp gần 5 lần so với nông nghiệp của huyện đảo, cụ thể năm 2005 giá trị sản xuất thủy sản ở Lý Sơn là triệu đồng. Cho nên xét về giá trị sản xuất thì thủy sản lại đứng hàng đầu trong kinh tế của huyện đảo, chứ không phải nông nghiệp. Nghề cá xưa chủ yếu chỉ đánh bắt ở ven bờ, với nghề lưới chuồn và đánh cá trích. Nhờ có kinh nghiệm đi biển và khai thác hải vật, nên từ xưa người dân ở An Hải phường và An Vĩnh phường đã được các triều đại phong kiến tuyển mộ đi tuần thú và khai thác hải vật ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ngày nay, nhà nước đã đầu tư xây dựng cảng cá Lý Sơn và hỗ trợ ngư dân mua sắm ngư lưới cụ phát triển nghề và ngành đánh bắt hải sản ngày càng tỏ ra quan trọng, nhất là đánh bắt xa bờ. Tuy nhiên, năng lực đánh bắt và sản lượng đánh bắt hải sản của Lý Sơn vẫn còn thấp so với các huyện ven biển của tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài đánh cá, người dân Lý Sơn còn sống nhờ vào nghề buôn bán và dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ nghề cá. Xưa do nhu cầu của đời sống phải có những nhu yếu phẩm như gạo, nước, đá, gỗ, gạch ngói, vải vóc và nhu cầu bán đi các loại hàng sản xuất được nên đã mặc nhiên hình thành những ghe chuyên đi buôn bán với đất liền trong tỉnh, dần hình thành một vạn ghe 50 chiếc đi xa, chuyên vào Nam ra Bắc mua lúa gạo về bán. Từ đất liền Quảng Ngãi cũng có nhiều người chuyên đi buôn bán ở Lý Sơn. Nhiều thuyền buôn của các nước cũng ghé lại đảo. Việc buôn bán trong bối cảnh kinh tế mở cửa ngày nay càng thịnh đạt. Dịch vụ nghề cá, như sản xuất ngư lưới cụ, sửa chữa tàu thuyền, buôn bán xăng dầu, các dịch vụ vui chơi giải trí… cũng theo đó mà phát triển Đường từ đất liền ra Lý Sơn có thể đi từ nhiều cửa biển, nhưng thuận tiện nhất vẫn là từ cửa biển Sa Kỳ. Cần biết rằng đây là thuỷ đạo truyền thống có từ nhiều trăm năm trước. Sách Đồng Khánh địa dư chí chép “Tấn Lý Sơn nằm ở vùng biển thuộc huyện Bình Sơn, đối xứng với tấn Sa Kỳ theo chiều ngang. Có xây đồn trấn giữ. Bốn mặt đều có ghềnh đá, bãi đá, tàu bè đi lại phải né tránh. Sự thuận tiện của tuyến hải trình Sa Kỳ – Lý Sơn còn ở chỗ nó là tuyến ngắn nhất nối với tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi thuở xưa có con đường chạy theo tả ngạn sông Trà Khúc đi trực chỉ đến cửa Sa Kỳ. Đường này nay đã xây dựng thành Quốc lộ 24B, trải nhựa; cảng cá Sa Kỳ, cảng Lý Sơn đều đã được xây dựng. Đường nội bộ ở đảo Lý Sơn thì từ điểm nút là cảng nằm ở phía tây nam đảo gần huyện lỵ có trục đường men theo bờ biển phía nam nối hai xã của đảo Lớn. Đây là trục đường chính. Có trục đường ngang nối phía nam và phía bắc nằm ở giữa đảo, và có nhiều tuyến nhỏ ngang dọc. Cho đến cách nay khoảng một vài chục năm, phương tiện giao thông của cư dân trên đảo vẫn là đi bộ, đi xe đạp. Xe máy, xe ô tô mới xuất hiện gần đây. Nhờ nhà nước quan tâm nên cơ sở hạ tầng ở Lý Sơn ngày càng tốt, trong đó hệ thống điện, đường, trường, trạm, trụ sở cơ quan được xây dựng khang trang. Tuy nhiên, vấn đề nước dùng cho sinh hoạt ở đảo Bé rất khan hiếm. Đảo hầu như không có nguồn nước ngầm, nên dân ở đảo phải sắm bể, lu, vại lớn để chứa nước mưa dùng hằng năm. Ở đảo Lớn, trong những năm khô hạn, nước ngầm cạn kiệt, vấn đề nước dành cho sinh hoạt cũng rất nan giải. Nguồn
gioi thieu ve quang ngai